Bảo tàng Tố Hữu
Nhận định
Mãi xứng danh với Đảng, với nhân dân
Chất Trữ Tình Trong Thơ Tố Hữu
Tố Hữu - NgườI Lĩnh Xướng
Đồng Chí Tố Hữu VớI Công tác Tư tưởng, Lý luận của Đảng
Tố Hữu: Cuộc đời cách mạng, cuộc đời thơ
Tố Hữu – Một Tài Năng Dịch Thơ Lỗi Lạc
Tố Hữu, Nhà Thơ – Chiến Sĩ
Đồng chí Tố Hữu
Nhà Thơ Tố Hữu Và Những Chuyến Đi
Máu Và Hoa – Con Đường Của Nhà Thơ Tố Hữu
Thơ Tố Hữu
Tố Hữu – Một Nhà Tư Tưởng Xuất Sắc, Một Nhà Thơ Lớn…
LờI giớI thiệu
Đọc Tập Thơ Gió Lộng Của Tố Hữu
Đọc lại Tố Hữu
Khi nhà nghệ sĩ tham gia vào cuộc đấu tranh vớI tất cả tâm hồn mình
Ra Trận - Khúc Ca Chiến Đấu
Ta Với Ta – Đóng Góp Mới Của Tố Hữu
Đọc Tập Thơ Bác Hồ Của Tố Hữu
Từ Ấy – Tiếng Hát Của Một Người Thanh Niên, Một Người Cộng Sản
Tình Yêu Quê Hương Đất Nước Trong Tập Thơ Việt Bắc
"Con Mắt Thần Chủ Nghĩa" Trong Thơ Tố Hữu
Việt Bắc – Tập Thơ Tiêu Biểu Của Thơ Ca Kháng Chiến Chúng Ta
Tố Hữu – Nhà Thơ Lớn Của Dân Tộc
Gió Lộng – Tiếng Nói Đồng Tình, Đồng Chí
Người Chiến Thắng Là Người Xây Dựng Mới
Phong Cách Dân Tộc Đậm Đà
Tố Hữu
Con Đường Của Nhà Thơ
Đọc Lại Thơ Tố Hữu
Phong Vị Ca Dao Dân Ca Trong Thơ Tố Hữu
Phong Cách Nghệ Thuật Của Tố Hữu (Trích)
Nhà Thơ Tố Hữu Và Những Chuyến Đi
Tố Hữu – "Người Đốt Lửa" Và "Người Gieo Hạt"
Đọc Lại Tố Hữu
Đọc Tập Thơ Gió Lộng Của Tố Hữu
Tập Thơ Việt Bắc Của Tố Hữu
Tố Hữu Với Chúng Tôi
"Từ Ấy Trong Tôi(*) Bừng Nắng Hạ" (Trích)

Tố Hữu – "Người Đốt Lửa" Và "Người Gieo Hạt"

- Phong Lan – Mai Hương

Trên bầu trời của nền văn học Việt Nam hiện đại, Tố Hữu luôn được coi là ngôi sao ngời sáng, là người mở đầu và dẫn đầu tiêu biểu của nền thơ ca cách mạng. Sáu mươi năm gắn bó với hoạt động cách mạng và sáng tạo thơ ca, thơ ông đã thực sự tạo nên được niềm yêu mến, nỗi đam mê bền chắc trong lòng nhiều thế hệ độc giả. Ông là người đã đem đến cho công chúng và rồi cũng nhận lại được từ họ một sự đồng điệu, đồng cảm, đồng tình tuyệt diệu, đáng là niềm ao ước của mọi sự nghiệp thơ ca, kể cả những nhà thơ lớn cùng thời với ông.
Và cũng trong suốt hơn năm thập kỉ qua, thơ Tố Hữu đã trở thành một hiện tượng, một đối tượng nghiên cứu lớn của giới học thuật, thu hút hầu hết các nhà nghiên cứu, phê bình tên tuổi trong cả nước: K và T, Trần Minh Tước, Trần Huy Liệu, Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Lê Đình Kỵ, Hà Minh Đức, Vũ Đức Phúc, Phan Cự Đệ, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Đình Sử,... và các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng như Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông,... Bằng vốn kiến văn sâu rộng và tài năng riêng, mỗi người theo cách thức của mình, đã chỉ ra thế giới nghệ thuật mới mẻ, phong phú, khác biệt cùng các giá trị nhân văn và thẩm mĩ sâu sắc, lâu bền của thơ Tố Hữu.

Dường như song hành với quá trình sáng tạo nghệ thuật bền bỉ, dẻo dai của Tố Hữu là một lịch sử phê bình, nghiên cứu dày dặn, phong phú về thơ ông kéo dài trong suốt sáu thập kỉ qua. Tố Hữu cũng là tác gia đương đại duy nhất đã gây nên hai cuộc tranh luận học thuật lớn và kéo dài xoay quanh hai tác phẩm của nhà thơ.
Ngay từ khi thơ Tố Hữu mới xuất hiện rải rác trên báo chí cách mạng vào những năm cuối của thời kì Mặt trận Dân chủ Đông Dương, cùng với sự đón nhận nồng nhiệt của công chúng, giới văn học cách mạng đã đánh giá cao thơ ông, coi đó là một hiện tượng quan trọng và mới mẻ của nền văn học cách mạng. Trong bài viết đầu tiên giới thiệu về thơ Tố Hữu (báo Mới, số 1, ngày 1 – 5 – 1939) tác giả K và T đã khẳng định: "Thơ Tố Hữu là cả một nguồn sinh lực đem phụng sự cho lí tưởng", "Với Tố Hữu, chúng ta đã có một nhà thơ cách mạng có tài", "nhà thơ chiến sĩ", "nhà thơ của tương lai". Chỉ một tháng sau đó, cũng trên báo Mới, Trần Minh Tước lại một lần nữa hân hoan bày tỏ cảm tình đặc biệt của ông với "Những lời thơ hiên ngang của một thi nhân rất trẻ và sống nhiều là Tố Hữu", nhà thơ mà ông từng "yêu dấu" và thầm đón đợi, người thi sĩ "... từ khốn cùng đứng lên mà ca hát với cả những tình cảm còn nóng của hàng ngũ mình". Quả là hai ông đã tinh tường phát hiện ở Tố Hữu một kiểu nhà thơ mới - "nhà thơ chiến sĩ".
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, khi tập thơ đầu tiên của Tố Hữu, tập Thơ, được Hội Văn hoá cứu quốc ấn hành 1946, trong Lời giới thiệu, Trần Huy Liệu đặc biệt nhấn mạnh sự gắn bó chặt chẽ giữa "Lịch trình tiến triển về thơ của Tố Hữu và trình độ giác ngộ về sức hoạt động cách mạng của Tố Hữu", từ đó khẳng định Tố Hữu là "một thi sĩ", "một chiến sĩ", và "Thơ Tố Hữu không phải là một trò tiêu khiển mà là một khí cụ đấu tranh". Đó cũng là đặc điểm cơ bản quán xuyến cả đời thơ Tố Hữu.

Suốt những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, do những điều kiện lịch sử đặc biệt, thay vì sự thiếu vắng của những bài giới thiệu trên mặt báo, thơ Tố Hữu trực tiếp đi vào đời sống, trực tiếp sống trong sự tiếp nhận nồng hậu của quần chúng kháng chiến.
Chỉ từ sau hoà bình lập lại năm 1954, sự ra đời của hai tập thơ Việt Bắc (1954) và Từ ấy (1959) đã tạo nên hai cuộc tranh luận về thơ Tố Hữu. Tựu trung ý kiến tranh luận về tập Việt Bắc được phân tuyến trên vấn đề đánh giá giá trị hiện thực, tính giai cấp, tính đảng của tập thơ. Luồng cảm hứng phủ định được khơi từ bài viết của Hoàng Yến và tiếp nối qua Hoàng Cầm,...
 
Đối lại là những bài viết trong sự khẳng định giá trị cơ bản và nổi bật của tập thơ Việt Bắc của Xuân Diệu, Nguyễn Đình Thi, Hoài Thanh, Vũ Đức Phúc,... cùng một số bạn đọc. Trong đó, đáng lưu ý hơn cả là những ý kiến giàu sức thuyết phục của Xuân Diệu và Nguyễn Đình Thi. Xuân Diệu đánh giá cao những cống hiến đầy tâm huyết của Tố Hữu. Ông rất nhạy cảm để chỉ ra nét riêng của thơ Tố Hữu là "Tiếng thơ của tình thương mến" làm nên "hương vị của thơ Tố Hữu" và là nét chủ đạo trong phong cách nghệ thuật của ông.

Giữa năm 1959, tập Thơ được tái bản dưới nhan đề Từ ấy với lời giới thiệu của Giáo sư Đặng Thai Mai. Tập thơ ra đời trong sự đón đợi của công chúng và thu hút được sự chú ý rộng rãi của giới phê bình. Hầu hết bài viết về Từ ấy đều thống nhất đánh giá cao tập thơ. Chỉ từ khi Xuân Diệu viết bài Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ, trong đó đề cập đến mối quan hệ giữa Từ ấy và phong trào Thơ mới, mới dẫn đến cuộc tranh luận kéo dài gần một năm, khi ông nêu lên luận điểm: "Thơ Tố Hữu trước Cách mạng tức là sự thoát thai từ phong trào Thơ mới (từ 1932 trở đi)". Nhiều ý kiến đã phản đối gay gắt ý kiến này của Xuân Diệu và thậm chí còn cực đoan phủ nhận quan hệ giữa thơ Tố Hữu và Thơ mới. Trong cuộc tranh luận này, Huỳnh Lý và đặc biệt là Lê Đình Kỵ có phần điềm tĩnh hơn trong những ý kiến góp bàn hợp lí, có sức thuyết phục. Sau những tranh luận trên, Xuân Diệu viết bài Dao có mài mới sắc, tự nhìn nhận lại quan điểm cũ và cho rằng: "Tôi đã viết một câu giản lược gây nên những sự nhầm lẫn... Chữ "thoát thai" của tôi dùng không thoả đáng". Vấn đề được khép lại và thời gian dần đã khẳng định những gì Xuân Diệu đã nêu lên và những nhà nghiên cứu điềm tĩnh, có bản lĩnh đã tán đồng từ ba, bốn thập niên trước đây là xác đáng.
Sau những sóng gió của hai cuộc tranh luận về Việt Bắc và Từ ấy, thơ Tố Hữu vẫn tiếp tục, đều đặn ra đời trong sự đón đợi và mến mộ của đông đảo công chúng; trong sự quan tâm, giới thiệu trân trọng của giới nghiên cứu, phê bình. Những bài viết về từng tập thơ của Tố Hữu đều khá thống nhất trong việc đánh giá xu hướng phát triển, vận động và thành tựu của thơ Tố Hữu là: "Tiếng thơ của thời đại", có sức bao quát những vấn đề lớn của cách mạng, dân tộc, thời đại và mỗi tập thơ dường như đều thể hiện một bước tiến của thơ Tố Hữu. Trên xu hướng này phải trân trọng ghi nhận những đóng góp lớn của Hoài Thanh. Hơn ai hết, ông là người bền bỉ, miệt mài dõi theo từng tập thơ của Tố Hữu. Những bài viết của ông không chỉ thể hiện tâm huyết của nhà phê bình với thơ Tố Hữu, mà còn hội tụ những ưu thế riêng có của Hoài Thanh: sự tinh nhạy trong cảm thụ, một nghệ thuật bình thơ độc đáo và khả năng đón định, phát hiện những cái mới,...

Cũng là lẽ tự nhiên, càng về cuối đời thơ của Tố Hữu, trước nhu cầu đánh giá, tổng kết hành trình thơ của một nhà thơ tiêu biểu, càng xuất hiện nhiều hơn những công trình, tiểu luận đánh giá toàn diện về đời thơ của ông. Đi từ những góc độ, những cách tiếp cận khác nhau, hầu như các công trình đều gặp gỡ nhau trong sự đánh giá thống nhất những đóng góp có giá trị đặc sắc của một phong cách thơ lớn trong sự phát triển của nền văn học dân tộc. Chính sự am hiểu về "đồng nghiệp", về "bếp núc của nghề thơ", sự đồng cảm giữa những nghệ sĩ sáng tạo lớn,... đã tạo nên sức hấp dẫn trong việc đánh giá chuẩn xác nhuần nhị vừa "có lí có tình", vừa sắc sảo, ý nhị qua những bài viết về Tố Hữu đầy bản lĩnh, giàu tính dự cảm của Xuân Diệu, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông, đặc biệt là Chế Lan Viên. Với bài viết giới thiệu tuyển tập thơ đầu tiên của Tố Hữu (1963), Chế Lan Viên là người đầu tiên đã nhìn nhận thơ Tố Hữu một cách tổng thể, sâu sắc. Không chỉ dừng lại đánh giá ở giá trị tư tưởng, nội dung mà ông còn đặc biệt đi sâu phân tích và phát hiện những nét đặc sắc về giá trị nghệ thuật của thơ Tố Hữu trên các phương diện về phong cách, điệu tâm hồn vừa dân tộc vừa hiện đại, về ngôn ngữ, hình tượng thơ, về nhạc tính, giọng điệu, bút pháp,...

Và vốn kiến văn sâu rộng, kinh nghiệm nghiên cứu cùng khả năng tổng hợp cũng đã tạo nên sự bề thế và vẻ đẹp uyên bác của trí tuệ trong những công trình, bài viết của nhiều nhà nghiên cứu tên tuổi trong cả nước. Giáo sư Đặng Thai Mai với Mấy ý nghĩ giới thiệu tập thơ Từ ấy, cùng với việc khẳng định những giá trị nội dung, tư tưởng nổi trội, khác biệt của Từ ấy, là người đầu tiên đề cập đến vấn đề sự hình thành phong cách và phương pháp sáng tác của Tố Hữu. Ông đặc biệt nhấn mạnh là thơ Tố Hữu: "đã có xu hướng hiện thực xã hội chủ nghĩa" trên cơ sở "kết hợp chủ nghĩa lãng mạn với chủ nghĩa hiện thực". Ông cũng là người đầu tiên đề cập một cách thuyết phục, có lí có tình về mối quan hệ giữa thơ Tố Hữu và phong trào Thơ mới. Theo ông: "Là người của thời đại, Tố Hữu không thể không đọc, không thưởng thức Thơ mới trong phần thành công của nó. Tố Hữu cũng đã viết Thơ mới. Điều đó rất dễ hiểu. Nhưng nội dung cách mạng sẽ làm cho thơ của Tố Hữu có một phong cách riêng biệt"... Từ đó, Giáo sư đã đưa ra một nhận định chung sâu sắc về Tố Hữu: "Trên cơ sở nhận thức rất biện chứng về xu thế của xã hội, Tố Hữu đã thực hiện được sự thống nhất giữa tình cảm với lí trí, giữa nghệ thuật với hành động, giữa hình thức với nội dung". Suốt mấy thập kỉ qua, Giáo sư Hà Minh Đức cũng là một người bền bỉ, chuyên tâm nghiên cứu về thơ Tố Hữu. Bằng sự am hiểu sâu rộng và một nguồn tư liệu phong phú cần mẫn gom góp được, Hà Minh Đức qua hai Lời giới thiệu công phu cho hai Tuyển tập thơ Tố Hữu vào các năm 1979 (NXB Văn học) và 1995 (NXB Giáo dục) cùng một số bài viết khác đã có một cách nhìn nhận, đánh giá riêng đáng chú ý về thơ Tố Hữu: vừa khái quát, vừa đi sâu vào những khía cạnh cụ thể, để thấy được những nét ổn định và vận động trong phong cách nghệ thuật của nhà thơ. Cũng nhờ nhiều năm kiên tâm theo dõi đường thơ Tố Hữu, Hà Minh Đức đã chỉ ra được cái điều mà chưa mấy ai nói tới, đó là thơ Tố Hữu không chỉ là bài hát, không chỉ là tiếng ca vui của thời đại, mà về cuối đời, với tập Một tiếng đờn, thơ ông còn có thêm một sắc điệu mới, đó là niềm đau, nỗi buồn thấm thía.

Càng về sau, giới học thuật cả nước càng quan tâm nghiên cứu nhiều hơn đến phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu. Ngoài mấy trăm bài nghiên cứu về Tố Hữu ở trong và ngoài nước, còn có nhiều công trình biên khảo chuyên sâu về thơ ông. Trong đó nổi bật nhất là ba công trình: Thơ Tố Hữu của Lê Đình Kỵ (1979); Thơ Tố Hữu, tiếng nói đồng ý, đồng tình, đồng chí của Nguyễn Văn Hạnh (1985) và Thi pháp thơ Tố Hữu của Trần Đình Sử (1987). Hai công trình đầu tiếp cận thơ Tố Hữu theo phương pháp truyền thống, kết hợp khảo cứu công phu, khoa học với cảm thụ nghệ thuật tinh tế và có tính chất khai phá. Trên cơ sở cái nền chung hiện có, các tác giả đã lần đầu tiên nghiên cứu thơ Tố Hữu như một chỉnh thể toàn vẹn, có hệ thống, với nhiều phát hiện, đóng góp đáng giá. Tuy nhiên, với yêu cầu khám phá và và lí giải thế giới nghệ thuật thơ Tố Hữu một cách sâu sắc và biện chứng, phương pháp tiếp cận truyền thống của hai công trình này chưa hoàn toàn đáp ứng được. Đến công trình Thi pháp thơ Tố Hữu của nhà nghiên cứu Trần Đình Sử, đã có một cách tiếp cận thơ Tố Hữu theo lối khác, hiện đại hơn, đó là thi pháp. Nhờ thế, mặc dù đi sau, tác giả Trần Đình Sử với cách nhìn nhận thơ Tố Hữu dưới một ánh sáng khác mới mẻ hơn, đã có được những phát hiện riêng độc đáo và sâu sắc, mang tính khoa học. Dù rằng đôi khi cách tiếp cận này còn có phần thiên về duy lí.
 
Trải qua hơn năm mươi năm nghiên cứu, phê bình thơ Tố Hữu, giới học thuật nước ta ngày càng tiếp cận thế giới nghệ thuật của nhà thơ một cách toàn diện, phong phú và thực chất hơn. Đồng thời quá trình nghiên cứu này cũng góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành nghiên cứu, lí luận phê bình Việt Nam.

*

*      *


Với hàng chục tập thơ trải dọc dài theo đường đời và đường cách mạng của Tố Hữu như Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Theo chân Bác, Máu và hoa, Nước non ngàn dặm, Một tiếng đờn,... mỗi tập chắt chiu từng chặng sống, từng chặng đường hoạt động cách mạng say mê và nhiệt thành của nhà thơ, cũng đồng thời là sự kết tinh những sự kiện trọng đại nhất trên từng chặng đường lịch sử vẻ vang và không ít thăng trầm, gian khổ của dân tộc, của cách mạng Việt Nam. Ở đây, thơ Tố Hữu đã thực sự là sự hội tụ của những lẽ sống lớn thời đại, của tiếng nói tâm tình của công chúng, để trở thành tiếng hát của dân tộc, của thời đại. Từ trong lòng cuộc sống, thơ Tố Hữu đã có được tiếng vang sâu xa giữa dòng đời và rồi có sức lắng đọng trong lòng đông đảo độc giả. Sức cảm hoá, đồng hoá, mối giao lưu tuyệt diệu ấy đã góp phần đưa thơ Tố Hữu vượt qua quy luật sàng lọc sòng phẳng và khắc nghiệt của thời gian, để trở thành thơ không chỉ của hôm qua, hôm nay mà của cả mai sau.

Cái gì đã tạo nên sự thành công và sức hấp dẫn lạ lùng đó của thơ Tố Hữu? Cái gì đã tạo nên một tài năng, một phong cách thơ lớn và độc đáo như vậy?
Câu trả lời nằm trong hàng trăm bài viết, công trình nghiên cứu phê bình phong phú, đa dạng dọc theo đời thơ của ông suốt nửa thế kỉ qua và chắc chắn còn được nối dài thêm nữa, khơi sâu và mở rộng hơn nữa trong sự tiếp nhận của những thế hệ độc giả tương lai. Nếu sức sống của thơ nằm trong lòng độc giả, trong sự mến mộ và đồng vọng sâu xa nơi họ, thì có thể nói rằng Tố Hữu và thơ ông vẫn sẽ sống, sẽ tạo được những trường diện đồng cảm, đồng điệu, đồng tình mới,... Đó là mảnh đất dành riêng cho công chúng.
Tố Hữu vào đời giữa một thời kì lịch sử đen tối và sục sôi cách mạng của dân tộc, giữa những biến động dữ dội của thời cuộc, của xã hội Việt Nam những năm hai mươi của thế kỉ XX. Đứng trước ngã ba ngã bảy của cuộc đời, một câu hỏi lớn của thời đại - không thể không trả lời, nhưng cũng không phải bất cứ ai cũng có thể trả lời đúng đắn được - đặt ra gay gắt với mỗi con người Việt Nam vào lúc đó và nhất là với thế hệ thanh niên thời bấy giờ:

Bâng khuâng đứng trước đôi dòng nước
Chọn một dòng hay để nước trôi?

Tố Hữu đã không ngần ngại đến với cách mạng, tìm chọn, gắn bó đời mình với cuộc đời của giai cấp cần lao; nối buộc tâm hồn mình với bao nhiêu "hồn khổ" của những người dân nô lệ, những kiếp sống đoạ đày đang gắng tìm lối thoát cho mình, cho dân tộc. Có thể nói, Tố Hữu đã tìm được một lẽ sống cao đẹp cho cuộc đời mình. Nó là cơ sở để Tố Hữu tìm được một lẽ sống đích thực cho thơ.
Hoà mình với dân tộc quang vinh và khổ đau của mình, nhập thân vào đời sống và cuộc chiến đấu của họ để sống, để chiến đấu và làm thơ, với Tố Hữu, thơ do vậy "đã tự nhiên là sự diễn đạt, sự giác ngộ của anh về số phận của dân tộc mình"(1). "Nhà thi sĩ ấy tự muốn mình là tiếng nói của dân tộc mình"(2).
Chọn cho thơ một lẽ sống đích thực trong sự gắn bó máu thịt với cuộc đời, với cuộc đấu tranh gian khó và hiểm nguy của quần chúng cách mạng, của giai cấp cần lao, thơ Tố Hữu do vậy là sản phẩm của cuộc đời, của cuộc đấu tranh cách mạng và trở lại, nó phục vụ trực tiếp cho cuộc đời, cho cuộc đấu tranh ấy. Thơ trong quan niệm của Tố Hữu thực sự là một vũ khí, phải đâu một cứu cánh.
"Ta chỉ yêu thứ thơ nào (...) cho ta thêm sức sống, sức chiến đấu cho hạnh phúc của con người. Văn nghệ nói chung là vậy, thơ lại càng như vậy"(3).

Quan niệm ấy đã hướng định, chi phối trọn vẹn cả đời thơ Tố Hữu. Và bởi thế, thơ ông như bộ biên niên sử của dân tộc, của thời đại và người thi sĩ nơi ông luôn da diết một khao khát đi tìm tri âm giữa cuộc đời. "Văn học là cuộc đời", "Chuyện thơ rút cục cũng là chuyện đời thôi", bởi "Cuộc đời, ấy là trái tim của mình", của người nghệ sĩ. Và cũng bởi vậy, thơ trước hết là "tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí..." giữa cuộc đời...

(1), (2) Pièrre Emmanuel.
(3) Tố Hữu, Thơ là tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí, tạp chí Văn nghệ, số 48, tháng 5 – 1961.
 
Giới thiệu tập thơ Máu và hoa của Tố Hữu được xuất bản ở Paris năm 1975, Pièrre Emmanuel chẳng những chỉ thấy ở ông "một thi sĩ độc đáo, một nhà sáng tạo các hình thể" mà cũng rất tinh tế trong nhận xét "người ta càng cảm thấy điều đó rõ hơn khi anh nói một cách rất hay về thơ"... Tố Hữu nói về thơ tự nhiên, say mê, chân tình. Ông không cố công đi tìm một định nghĩa mang màu sắc lí luận về thơ, cũng không viện dẫn từ sách vở cao xa. Ông "tâm sự làm thơ", nói chuyện về thơ, ngay trên chính đời thơ và bằng thơ của mình, từ những trải nghiệm đã thành máu thịt, được chắt lọc từ cả cuộc đời thi sĩ và cả cuộc đời cách mạng.

Nói đến thơ, Tố Hữu bao giờ cũng đi từ vấn đề cốt lõi - mối quan hệ giữa thơ và cuộc sống - vốn là điều ông hết sức quan tâm và cũng là thực tế đời thơ, đời thi sĩ của ông. Đó là mối quan hệ hữu cơ tương hỗ: không có cái này chắc không có được cái kia, và cái này là hệ quả tất yếu của cái kia. Với Tố Hữu: "Thơ là tiếng nói hồn nhiên nhất của tâm hồn con người trước cuộc đời, trước tất cả những gì diễn ra xung quanh mình"(4). Thơ là kết quả của sự "nhập tâm đời sống, trí tuệ, tài năng của nhân dân, nhập tâm được bao nhiêu là nhờ ở cuộc đời của mình gắn bó được bao nhiêu với nhân dân mình"(5). "Thơ là cái nhuỵ của cuộc sống", tách rời khỏi cuộc sống thơ sẽ như "cây nhổ khỏi đất", "cá ra khỏi nước". Và do vậy, với mỗi người làm thơ, vấn đề cốt tuỷ là phải "sống" đã, "phải sống đến tận cùng cuộc sống mới mong có được tác phẩm hay", bởi vì "Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã thật đầy"...

(4), (5) Tố Hữu, Sđd.

Đi vào đặc trưng của thơ ca, Tố Hữu đã nói với ta biết bao điều tâm huyết. Ông đưa mình ra, vận mình vào, chắt ra từ đời thơ của mình những kỉ niệm thấm thía nhất. Thành ra, qua những điều ông "tâm sự", ta như thấy những điều "gan ruột" của thi sĩ, thấy quá trình suy nghĩ và hình thành của thơ ông hơn là thấy những quan niệm, những ý tưởng văn chương khuôn cứng. Uyển chuyển mà sâu sắc, hấp dẫn, đó là cảm nhận chung của người đọc.
Tố Hữu luôn yêu cầu thơ phải có "chất thép", nhưng đồng thời "chất thép" phải là chất thơ. Thơ vừa là tiếng nói của lí trí, vừa là tiếng nói của tình cảm và của những gì thật sâu xa trong lòng thi sĩ khát khao tìm đến những tấm lòng bè bạn. "Thơ là tiếng nói tri âm" và bởi vậy, thơ hay trong quan niệm của ông "phải làm cho người ta không còn thấy câu thơ, chỉ còn cảm thấy tình người, quên rằng đó là tiếng nói của ai, người ta thấy nó như tiếng ca từ trong lòng mình, như là của mình vậy".

Ông thường xuyên trở lại với chữ tâm, chữ nhân, chữ nghĩa: "Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài" (Nguyễn Du) và "Càng thấu nhân tình nên vẫn thơ". Tố Hữu luôn nhắc mình, nhủ người: "Ngân tiếng chuông đồng, vọng tiếng tâm", "Xin sáng lòng anh một chữ nhân", "Da diết lòng anh một chữ nhân",...

Ông còn hay nghĩ về "chữ tài và chữ thật" và theo ông "nên chăng nói đến chữ tài ít hơn mà nói nhiều hơn đến chữ thật". "Thơ hay thường mộc mạc, chất phác không cần trang sức... càng trần trụi chân chất càng gây cảm xúc sâu xa trong lòng người đọc". Và ông luôn tâm niệm rằng trước hết nhà thơ phải sống thật với mình, với Đảng, với nhân dân, Tổ quốc mình thì thơ sẽ đạt tới độ "thật", độ "chân", cốt lõi tinh diệu của hiện thực đời sống và từ đó đưa thơ vươn tới được thiện và mĩ.

Tố Hữu cũng đặc biệt quan tâm đến tính dân tộc của thơ. Ông không cố công đi tìm hình thức, gọt rũa kĩ xảo trong thơ. Nhưng rõ ràng ông ý thức rất sâu sắc về sự kết hợp giữa dân tộc và hiện đại, hiện đại trên cái nền truyền thống dân tộc.

Ông rất dân tộc khi trở về với thơ ca dân gian, với thơ ca yêu nước truyền thống, đặc biệt với truyền thống thơ phương Đông "ý tại ngôn ngoại". "Thơ là cái đó, sự im lặng giữa các từ. Nếu người ta lắng nghe cái im lặng đó thì có những tiếng dội rất đa dạng và tinh tế" và cũng lại rất hiện đại khi ông chỉ ra cả cái phần "irrationnel", phần không lí trí trong thơ: "Thơ phải chăng là điều ấy: mơ ở trong thực, cái vô hình trong cái hữu hình. Những sắc màu ở trong màu trắng. Đó là điều mà người ta gọi là sự tinh diệu của ngôn ngữ và tâm hồn. Những màu trong thâu: không sáng, cũng không tối, là mờ nhưng lại rõ, cái chính xác của sự mơ hồ, cái bảng lảng - có thể nói như vậy, khi người ta là thi sĩ..."(6).

(6) Con đường của nhà thơ, Sđd.

Và còn biết bao vấn đề khác nữa: hình ảnh, nhịp điệu, ngôn ngữ thơ,... trên mỗi một phương diện, từ quan niệm và thực tiễn thơ mình, Tố Hữu đều có những tâm sự chân thành và thuyết phục. Chẳng hạn khi ông đòi hỏi: hình ảnh thơ phải là những hình ảnh hồn nhiên của chính đời sống và ngôn ngữ thì phải đậm chất "ngôn ngữ dân gian", ngôn ngữ sống động nhất của cuộc đời. "Nó không chỉ là chữ a, chữ b, mà là cả cái tiếng vang lên trong từng chữ, tiếng vọng của cả khoảng cách giữa những chữ, những dòng...".

Có thể nói, Tố Hữu qua các tác phẩm cũng như những bài viết, bài nói, bài trả lời phỏng vấn đã có dịp đề cập khá kĩ lưỡng quan niệm của ông về sáng tạo nghệ thuật, sáng tạo thơ ca, từ những vấn đề lớn nhất đến những vấn đề cụ thể nhất. Nhưng sẽ là khiếm khuyết, sẽ không thể hiểu sâu sắc, toàn diện quan niệm của ông, nếu như chúng ta không tìm hiểu nó thông qua đời ông và thơ ông vốn đã được hướng định, dẫn dắt trực tiếp bởi những quan niệm nghệ thuật trên của ông, và rồi cũng góp phần bổ sung, hoàn thiện, làm sâu sắc thêm quan niệm nhất quán đó của Tố Hữu.

*

*      *


Vào năm 1939, trên tờ báo Mới, một nhà phê bình văn học có tiếng, dưới bút danh K và T, là người đầu tiên đã có những nhận định rất nhạy cảm, tinh tường và chính xác về nhà thơ trẻ tuổi Tố Hữu, lúc đó mới đang rụt rè bước lên thi đàn: "Tố Hữu đã có một căn bản nghệ thuật vững vàng lắm... Chàng thanh niên ấy tha thiết sống và sống một cách dồi dào. Chàng theo đuổi một lí tưởng. Thơ chàng là cả một nguồn sinh lực đem phụng sự cho lí tưởng... Với Tố Hữu, chúng ta đã có một nhà thơ cách mệnh có tài. Lần đầu tiên trong lịch sử văn hoá ta đó... Tố Hữu là nhà thơ của tương lai".

Nhà thi sĩ trẻ ngày ấy đã trở thành một nhà thơ nổi tiếng của đất nước, một gương mặt ngời sáng của nền thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại. Chặng đường đời và đường thơ dài sáu mươi năm sau này của ông đã ngày càng chứng thực sâu đậm thêm cái dự cảm tiên tri đó.
Với Tố Hữu, lần đầu tiên trong lịch sử nước nhà, chúng ta có một kiểu nhà thơ hoàn toàn mới - nhà thơ của giai cấp vô sản, nhà thơ - chiến sĩ, biết đem đời mình và thơ mình ra chiến đấu cho ngọn cờ lí tưởng cao cả vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Thơ ông là thơ kêu gọi, thơ chiến đấu, thơ hành động, là thơ "mang cánh lửa", "Đốt cháy trái tim con người vào ngọn lửa thần của đại nghĩa" (Xuân Diệu) và đã có bao nhiêu người cảm động vì thơ ông và từ thơ ông mà đến với cách mạng. Hơn nửa thế kỉ nay, thơ Tố Hữu đã trở thành tấm gương phản ánh những lẽ sống lớn của dân tộc, trở thành tiếng hát của thời đại chính là nhờ ngay từ bước khởi đầu, ông đã biết chọn cho mình một hướng đi đúng, một lí tưởng sống có ý nghĩa. Thơ Tố Hữu lớn và đẹp - bao nhiêu năm qua đã là chỗ dựa tâm hồn cho bao thế hệ công chúng bạn đọc - chính vì trước hết, ông có một cuộc sống đẹp, hữu ích cho mọi người, cho dân tộc và cái đó làm nên "một căn bản nghệ thuật vững vàng" nơi ông trong suốt cuộc đời sáng tạo thơ ca.

Cái đó cũng làm nên vai trò mở đầu và dẫn dắt nền thơ ca cách mạng Việt Nam, làm nên giá trị và sức quyến rũ kì lạ của thơ Tố Hữu. Bởi lẽ người đọc tìm đến, và quan trọng hơn là ở lại lâu dài với một nhà thơ, trước hết là vì họ cảm nhận được ngọn lửa lí tưởng ngời sáng, cùng một trái tim yêu thương con người rộng lớn và sâu thẳm - vốn là phẩm chất của những tài năng lớn - được toả ra từ nhà thơ đó. Điều này làm cho "Tố Hữu và thơ của ông ngời lên một ánh sáng riêng biệt giữa một số đông các nhà thơ khác"(7).

(7) Jacques Gaucheron, Con đường của Tố Hữu (Phương Thảo dịch), tạp chí Tác phẩm mới, số 57, tháng 1 – 1976.

Vào năm 1938, khi mười tám tuổi, Tố Hữu đã viết bài thơ nổi tiếng Từ ấy, mà sau này nhiều người coi là bản "tuyên ngôn" bằng thơ của ông:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim

Từ ấy, bằng chính đời mình và thơ mình, Tố Hữu đã luôn sống đúng như niềm tâm niệm đầu đời đó. Ở Tố Hữu, sự hoà quyện chặt chẽ giữa cái lí tưởng cao đẹp mà ông theo đuổi với tâm hồn trong trẻo, tràn đầy nhiệt huyết cách mạng và tình yêu Tổ quốc nồng cháy cùng một nỗi cảm thông, xót thương những con người lao khổ bị áp bức bóc lột đã làm nên gốc rễ và nguồn mạch sáng tạo dồi dào của ông trên suốt cuộc hành trình dài sau này.
Sở dĩ thơ Tố Hữu có chất men lửa nồng nàn, có sức thanh lọc tâm hồn và kêu gọi con người vươn lên, chính là vì trong trái tim ông luôn bùng cháy ngọn lửa lí tưởng của chủ nghĩa cộng sản và thơ ông do thế mang đậm ý thức cách mạng vô sản và tính chiến đấu, đã có tác dụng thức tỉnh, giục giã con người vùng lên tranh đấu.
Chế Lan Viên có lí khi cho rằng: "Giữa bao nhiêu ngọn cờ sai lạc dưới thời Pháp thuộc, anh là lá cờ Đảng nêu lên thành thơ cái lí tưởng, cái triết học, cái lối sống duy nhất đúng thời bấy giờ:

Đã vay dòng máu thơm thiên cổ
Phải trả ta cho mạch giống nòi...

Thực tế là Tố Hữu đã đến với Đảng, với cách mạng trước khi đến với thơ. Khí chất bẩm sinh của người thanh niên Tố Hữu trẻ tuổi "Như đứa trẻ ngang tàng nuôi mộng lớn" không thể không đưa ông đến cùng cách mạng, nhất là khi ông lại được sinh ra trong bối cảnh đất nước chìm đắm trong vòng nô lệ lầm than và vốn mang sẵn trong mình một trí lự lớn, một nhân sinh quan sống đầy can đảm: đem đời mình hiến dâng cho Tổ quốc:

Đời cách mạng, từ khi tôi đã hiểu
Dấn thân vô là phải chịu tù đày
Là gươm kề tận cổ, súng kề tai
Là thân sống chỉ coi còn một nửa.
                                        (Trăng trối)

Và rồi chính Đảng, chính thực tiễn đấu tranh cách mạng của dân tộc đã thổi bùng lên ngọn lửa thơ còn tiềm ẩn lâu nay trong tâm hồn thi sĩ của ông và đã luôn tiếp sức cho nguồn mạch thơ ông tuôn chảy dạt dào. Nếu không có Đảng, không có hiện thực cách mạng thì tất sẽ không có nhà thơ lớn Tố Hữu hôm nay, mà chỉ có một nhà thơ mới tầm cỡ nào đó. Hồn thơ ông lớn đẹp và có sức vang động lòng người là nhờ ông tiếp nhận được nguồn sinh lực của hồn cách mạng, hồn dân tộc và hồn thời đại. Thơ với Tố Hữu không phải là mục đích mà là phương tiện, là một thứ vũ khí sắc bén giúp ông làm cách mạng. Ông nói về thơ mình: "Phải, một giọng thơ không điêu luyện được như Thế Lữ, Xuân Diệu. Nhưng tôi khác họ. Tôi phải nói to lên nỗi đau khổ của nhân dân tôi, tội ác của chủ nghĩa phát xít và lí tưởng mà tôi tin". Như vậy, Tố Hữu đã là nhà chiến sĩ cách mạng trước khi là nhà thơ, và trong ông, hai con người đó luôn gắn bó và song hành cùng nhau: "Trăm năm duyên kiếp Đảng và Thơ... / Từ ấy hồn vui mãi đến giờ". Trong suốt cuộc đời Tố Hữu, ở hàng chục tập thơ, hàng nghìn bài thơ của ông, trên mỗi dòng chữ luôn thắm đượm và ánh lên lung linh cái lí tưởng của ông, cũng là của cả một dân tộc, được ông "nêu lên thành thơ" (chữ dùng của Chế Lan Viên), cái lí tưởng bao giờ cũng đi kèm một niềm tin yêu, hi vọng đầy sức mạnh và tuỳ ở từng thời kì cách mạng khác nhau mà nó biến đổi và mang những màu sắc riêng.

Ở thời Từ ấy, lí tưởng thẩm mĩ đó là lời kêu gọi cháy bỏng mọi người hãy "dậy mà đi" cứu nước cứu nhà, quyết hi sinh để giải phóng dân tộc và Tổ quốc đang rên xiết dưới ách thực dân phong kiến. Tuổi trẻ say lí tưởng làm cho lời thơ hừng hực lửa chiến đấu, như tiếng kèn giục giã xung trận. Chất men lãng mạn cách mạng ở Từ ấy bay bổng, nồng say, long lanh như rượu quý mà sau này ở các tập thơ khác của Tố Hữu không dễ bao giờ có lại được nữa:

Cờ tự do bay rợp chiến đài
Bốn phương trời đỏ rực tương lai
Dậy lên, hỡi những linh hồn trẻ
Máu của con yêu nhuộm thắm đời!
                         (Dậy lên thanh niên)

Ở Việt Bắc, Gió lộng, Máu và hoa, Nước non ngàn dặm,... giọng thơ Tố Hữu đã đằm hơn và là tiếng hát hùng tráng, sảng khoái của cả một dân tộc chiến thắng, tin ở lá cờ của chính nghĩa, ở sức mình, ở sự đoàn kết một lòng, đạp bằng mọi hiểm nguy, gian khó để chiến thắng thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, giành lại một giang sơn toàn vẹn trong độc lập và tự do. Ở đây có niềm tự hào của một dân tộc đã được tôi luyện và lớn mạnh lên trong đấu tranh, không kẻ thù nào ngăn nổi bước ta đi. Ở các tập thơ Ra trận, Máu và hoa, thơ Tố Hữu mang nặng cảm hứng anh hùng ca. Vấn đề dân tộc và thời đại được thể hiện trong mối quan hệ gắn bó sâu sắc. Không phải ngẫu nhiên mà Tố Hữu luôn nhắc đến trong đời và trong thơ những điều thật mới mẻ về tầm thời đại, tầm thế kỉ.
Ở đây có cả niềm kiêu hãnh của một dân tộc biết đem xương máu đổi lấy nhân phẩm và lương tâm cho cả nhân loại:

Chúng muốn đốt ta thành tro bụi
Ta hoá vàng nhân phẩm, lương tâm
Chúng muốn ta bán mình ô nhục
Ta làm sen thơm ngát giữa đầm.
                    (Việt Nam máu và hoa)
 
Và ở đây cũng có cả những tiếng ca reo vui sung sướng đến ngỡ ngàng trong ngày vui toàn thắng của đất nước:

Một trời êm ả xanh không tưởng
Mặt đất bình yên giấc trẻ thơ
                    (Việt Nam máu và hoa)

Khi chúng ta bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, bằng một giọng trữ tình đằm thắm, thơ Tố Hữu lại thể hiện cái không khí đầy sôi nổi hào hứng, quyết tâm đưa một đất nước từ đói nghèo, tan hoang vì chiến tranh lên cuộc sống ấm no hạnh phúc:

Đời vui đó, tiếng ca
Đoàn kết Ta nắm tay nhau xây lại đời ta
Ruộng lúa, đồng khoai, nương sắn, vườn cà
Chuồng lợn, bầy gà, đàn trâu, ao cá
Dọn tí phân rơi, nhặt từng ngọn lá
Mỗi hòn than, mẩu sắn, cân ngô
Ta nâng niu gom góp dựng cơ đồ!
                         (Bài ca mùa xuân 1961)

Lời thơ ở đây ấm áp, náo nức cái xanh tươi của cuộc sống đang hồi sinh, thay da đổi thịt từng ngày và tuy giản dị, đơn sơ nhưng lại làm cảm động ta bởi tấm lòng "nâng niu, gom góp dựng cơ đồ" của cả một dân tộc và của chính nhà thơ.

Có thể nói, chỉ với Tố Hữu, cuộc sống đời thường mới ùa vào thơ tràn đầy, mạnh mẽ và sống động đến thế. Lí tưởng sống đẹp và một tấm lòng yêu con người, yêu cuộc sống mãnh liệt đến mức khiến ông nhìn bất kì cái gì, ở đâu cũng đều thấy được vẻ đẹp, chất thơ lãng mạn trong đó. Có thể nói Tố Hữu đã kéo thơ hoàn toàn ra khỏi tháp ngà nghệ thuật, đặt nó vào giữa dòng đời cách mạng sôi nổi của dân tộc và bằng tâm hồn thi sĩ của mình, ông đã kết tinh, đã biến ảo hơi thở cuộc sống lên thành thơ bằng chính lối cảm xúc bình dị, và thứ ngôn ngữ thơ "trực tiếp", giản dị, trong sáng của quần chúng nhân dân và của đời sống. Thơ Tố Hữu không cầu kì, không kĩ xảo, hầu như không dùng điển tích, điển cố, từ Hán Việt mà chỉ dùng tiếng nói thường ngày của nhân dân. Ta có cảm giác Tố Hữu làm thơ rất dễ dàng, mạch thơ ông cứ trào lên và cuốn đi cuồn cuộn, thế nhưng thơ ông vẫn cứ hay, vẫn cứ đọng lại trong lòng
người lâu dài, bởi ông chỉ làm thơ "khi trong tim cuộc sống đã tràn đầy". Vì thế thơ ông được kết cấu và đưa đẩy hoàn toàn theo mạch cảm xúc và dòng chảy ý thức tự nhiên bên trong của ông. Người đọc rung cảm và đồng vọng chính bởi cái mạch ngầm cảm xúc - suy tư sâu thẳm trong cõi lòng của thơ Tố Hữu và chính nó cũng làm nên nhạc tính, nhạc điệu, nhạc cảm rất quyến rũ của thơ ông:

Em ơi, Ba Lan mùa tuyết tan
Đường bạch dương sương trắng nắng tràn
Anh đi, nghe tiếng người xưa vọng
Một giọng thơ ngâm, một giọng đàn.
                              (Em ơi, Ba Lan...)

Bao nhiêu năm qua, trong cảnh gian lao của cuộc đời không bình yên, thơ Tố Hữu vẫn luôn đem đến cho mọi người một niềm tin yêu và hi vọng tươi xanh, lan toả từ lòng người ra khắp đất trời:

Lá bàng đang đỏ ngọn cây
Sếu giang mang lạnh đang bay ngang trời
Mùa đông còn hết em ơi
Mà con én đã gọi người sang xuân!
                              (Tiếng hát sang xuân)

Và ngay cả lúc về cuối đời, vào những khi lòng buồn khổ nhất, Tố Hữu vẫn níu giữ được cho mình tiếng ngân tha thiết của niềm tin yêu vào cuộc đời:

Có khổ đau nào đau khổ hơn
Trái tim tự xát muối cô đơn
Em ơi, nghe đó...
Trong đêm lạnh
Đằm thắm bên em, một tiếng đờn!
                              (Một tiếng đờn)

Mang trong tim ánh lửa hồng của lí tưởng lớn luôn thường trực, ngay từ buổi đầu, Tố Hữu đã "đắm mình trong dân tộc mình", đã tự gánh lấy trách nhiệm "là tiếng nói của dân tộc mình" (P. Emmanuel). Gắn bó máu thịt với cách mạng và dân tộc qua mọi thời kì lịch sử cam go, trọng đại nhất, thơ ông đã thực sự đủ tầm lớn - rộng để bám sát và phản ánh từng chặng đường lịch sử của đất nước, như một nhà biên sử bằng thơ và trở thành tiếng hát về những lẽ sống lớn của dân tộc và thời đại mà ông đang sống.
 
Có thể dễ dàng tìm thấy hình bóng những sự kiện lịch sử lớn in đậm và được khúc xạ bởi hồn thơ trữ tình, hào sảng, đằm thắm của ông. Từ cái khí thế long trời lở đất của cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại năm 1945 với niềm vui lớn "Hãy bay lên sông núi của ta rồi", đến niềm tự hào của cả dân tộc trong đêm lịch sử của chiến thắng Điện Biên "Trên đất nước như Huân chương trên ngực / Dân tộc ta dân tộc anh hùng".
Và đến mùa xuân đại thắng 1975, giọng thơ Tố Hữu lại tràn đầy vui sướng đến rưng rưng:

Ôi, nỗi mừng dâng mọi nỗi mừng
Trào vui nước mắt cứ rưng rưng
                              (Toàn thắng về ta)

Tố Hữu là nhà thơ - chiến sĩ luôn đứng ở tuyến đầu của cuộc kháng chiến, luôn gắn mình với giai cấp, dân tộc và nhân loại, nhờ thế thơ ông mang tầm khái quát và hơi thở trữ tình cách mạng hùng tráng, hoặc nói như nhà nghiên cứu Trần Đình Sử, thơ ông là "đỉnh cao thơ trữ tình chính trị", mang màu sắc lịch sử hoành tráng. Suốt đời mình, Tố Hữu lấy cảm hứng xã hội, cảm hứng lịch sử làm cảm hứng chính cho thơ ông. Với lối tư duy tổng hợp - khái quát cao độ và một tấm lòng giàu thương cảm, ông viết rất nồng nhiệt về những đề tài về xã hội và lịch sử tưởng như rất khó thành thơ: con người lao khổ bị áp bức bóc lột, cuộc chiến đấu của những chiến sĩ cộng sản trước Cách mạng, hai cuộc trường kì kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mĩ của toàn dân tộc giành độc lập, tự do, thống nhất cho Tổ quốc, những mất mát, đau khổ, hi sinh của chia cắt, của chiến tranh, những gương sáng anh hùng, công cuộc lao động xây dựng cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa, những xáo động trong phong trào cộng sản quốc tế, phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam ở Mĩ với ngọn lửa Morrison,...

Điều đặc biệt là Tố Hữu không cần phải ngoái nhìn về quá khứ mới có được cảm hứng lịch sử như nhiều nhà văn, nhà thơ khác. Ông lấy cảm hứng lịch sử ngay từ trong đời sống hiện tại, ngay từ trong hiện thực đấu tranh dữ dội, anh hùng của đất nước mình. Tố Hữu với tâm hồn nhạy cảm và con mắt nhìn thấu suốt bản chất sự vật, luôn tìm thấy trong từng sự việc giản dị, trong từng con người bình thường của cuộc sống hằng ngày vẻ đẹp, chất thơ, chất hùng ca của thời đại. Ông là nhà thơ duy nhất có tài "biến hiện thực thành lịch sử ngay từ trong hiện tại và dựng tượng đài bằng thơ" cho hàng loạt những người anh hùng áo vải đang sống cùng ông và cùng chúng ta hôm nay. Những tượng đài em Lượm, em Hoà, chị Diệu, chị Lý, anh Diểu, anh Thanh, anh Trỗi, mẹ Tơm, mẹ Suốt,... của những người có tên và không tên, đã làm nên cuộc chiến tranh nhân dân thần thánh.

Sinh ra từ nhân dân, Tố Hữu là nhà thơ đầu tiên có ý thức đưa hình ảnh quần chúng nhân dân vào thơ và theo đà phát triển của cuộc đấu tranh dân tộc, hình ảnh quần chúng cách mạng xuất hiện ngày càng nhiều trong thơ ông, với đủ các lớp người, lứa tuổi và gương mặt khác nhau, làm cho thơ ông đông vui, nhộn nhịp và thật ấm áp tình người. Nhưng Tố Hữu xây dựng thành công nhất là hai loại hình mẫu nhân vật mà ông luôn tâm đắc. Đó là những người dân lao khổ nhỏ bé, bình dị và ẩn sâu bên trong nhiều vẻ đẹp, khiến ông rất xót xa, thương cảm như em bé mồ côi, lão đày tớ, chị vú em, cô gái giang hồ, anh dân quê,... Họ cũng chính là đối tượng giác ngộ của cách mạng.
Hình mẫu thứ hai là những con người được Đảng giác ngộ, một lòng đi theo cách mạng và chiến đấu dũng cảm kiên cường, không quản ngại hi sinh; họ chính là những người làm nên lịch sử của đất nước. Dù có tên hay không có tên thì họ chính là lớp người tiên tiến của thời đại, mang phẩm chất tuyệt đẹp, đã được Tố Hữu khái quát lên thành hình tượng nghệ thuật nổi tiếng:

Sống trong cát, chết vùi trong cát
Những trái tim như ngọc sáng ngời
                                             (Mẹ Tơm)

Trong đó, tiêu biểu nhất là ba hình mẫu con người mà Tố Hữu vô cùng yêu mến và kính phục, và đã thể hiện họ bằng cả tấm lòng, nên đó cũng là những hình tượng thành công - sáng đẹp nhất trong thơ Tố Hữu và thơ hiện đại. Đó là hình ảnh người chiến sĩ cách mạng, anh bộ đội cụ Hồ, anh giải phóng quân, những người dũng sĩ đã làm nên chiến thắng của dân tộc, vừa hiện thực lại vừa lãng mạn:

Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài lên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá nguỵ trang reo với gió đèo...
                                   (Lên Tây Bắc)
 
Đó là hình ảnh những người mẹ Việt Nam vừa rất thân thương, gắn bó lại vừa là tượng trưng cho bà mẹ Tổ quốc, trong đau thương vẫn kiên cường và nhân ái:

     Ngẩng đầu, mái tóc mẹ rung
Gió lay như sóng biển tung, trắng bờ...
Bóng mẹ ngồi trông, vọng nước non...

Và thơ Tố Hữu đã kết tinh những phẩm chất cao đẹp nhất của cả dân tộc trong hình tượng Bác Hồ, người đã đưa cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi vẻ vang. Tố Hữu đã làm rất nhiều thơ về Bác Hồ, bài nào cũng tràn đầy xúc động, từ Hồ Chí Minh, Sáng tháng Năm, Việt Bắc, đến Bác ơi!, Theo chân Bác, Nước non ngàn dặm,... và rải rác trong hàng trăm bài thơ khác. Không ai viết về Bác Hồ nhiều như ông, da diết như ông và cũng không ai thể hiện được hình tượng Bác Hồ trên nhiều bình diện, vừa cụ thể vừa sâu sắc, tổng quát như ông. Hình tượng Bác Hồ kính yêu trong thơ Tố Hữu được trình bày với một sức mạnh nghệ thuật kì diệu, được diễn tả ở nhiều góc độ khác nhau, đẹp đến nao lòng. Từ hình ảnh Bác giản dị, ung dung đầy vẻ anh minh, hiền triết Á Đông trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp, được Tố Hữu mô tả rất sinh động và đượm vẻ siêu thoát trong Việt Bắc:

Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường!
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng Người...

đến những hình ảnh Bác Hồ sau này vẫn thân thương, gần gũi nhưng đã được Tố Hữu nâng lên tầm khái quát - là tượng trưng sáng đẹp cho dân tộc, cho đất nước:

Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch chẳng vàng son
Mong manh áo vải, hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.
                                                  (Bác ơi!)
 
Tố Hữu là một người có lòng yêu đời, yêu người thật nồng nàn và điều đó đã giúp ông là nhà thơ đầu tiên vượt thoát khỏi sự trói buộc ngàn đời của cái tôi cá nhân nhỏ bé, quanh quẩn trong thơ ca truyền thống. Điều đó tạo nên sức sống nội tâm mãnh liệt, phong phú, nhiều cung bậc, màu sắc trong tâm hồn thơ của ông, đưa ông đi về phía mọi người, phía cách mạng. Điều đó cũng làm cho ông không ngần ngại và khác biệt với các nhà thơ khác, "đưa" rất nhiều nhân vật con người bình thường vào thơ, những người ông thương xót, những người ông yêu mến và những người ông cảm phục. Từ kẻ đi ở, em bé mồ côi, ông lão đày tớ, chị vú em, cô gái điếm, người tử tù, đến cô gái phá đường, bà bủ, bà bầm, anh sáo mù, anh bộ đội, các chiến sĩ, liệt sĩ và các vị lãnh tụ,... họ tạo thành một đội ngũ quần chúng, đội ngũ cách mạng thật sống động, hùng hậu và đông vui trong thơ Tố Hữu. Khác với thơ xưa, thơ ông luôn "đầy" người, vì bản tính vui sống làm ông không chịu được sự yên tĩnh, riêng lẻ, cô đơn. Cho nên ngay từ thời Từ ấy, cả khi phải ở trong tù, đối mặt với cái chết giữa tuổi hai mươi tươi đẹp, thơ ông vẫn hừng hực niềm tin yêu và lửa sống. Ông không hề cảm thấy cô đơn, buồn nản, bởi được tắm mình vào giữa cuộc đấu tranh chung của các chiến sĩ cách mạng trong lao tù. Nói như nhà nghiên cứu Trần Đình Sử, ông là "kiểu nhà thơ ở giữa mọi người" và ông "làm thơ như trước mặt ông luôn có người" (Chế Lan Viên), để ông có thể được tiếp xúc, được đối thoại và được cảm nhận tiếng vang của lòng mình dội lại trong lòng người. Ở tập Từ ấy, chủ yếu mới là lời thương xót, kêu gọi, nhắn nhủ từ một phía của nhà thơ, chưa nghe rõ tiếng hồi đáp lại của mọi người. Nhưng từ các tập Việt Bắc, Gió lộng, Máu và hoa, Nước non ngàn dặm,... trở đi, khi sự đồng cảm, đồng điệu giữa ông cùng dân tộc và mọi người đã hoà làm một, thì nhu cầu được cảm nhận, được hô ứng, được gọi, hỏi, sẻ chia, giãi bày tâm sự cùng mọi người, trong thơ ông càng bức thiết và dồn dập hơn.

Đã từng rất nhiều lần Tố Hữu thốt lên trong thơ: "Ôi sống làm sao nếu chẳng yêu!", "Người yêu người sống để yêu nhau", "Nghìn thu thương nhớ biết bao nhiêu!",... và ông đến với cách mạng cũng chỉ vì ông yêu con người, yêu dân tộc mình tha thiết. Nhưng tình yêu của ông ở đây không phải là thứ tình yêu riêng lẻ, tình yêu trai gái. Nó rộng lớn hơn, bao trùm hơn, vì nó là lòng trắc ẩn, mối đồng điệu, đồng cảm, là tình nghĩa ân tình, thuỷ chung giữa con người với nhau: "Thương người như thể thương thân" của đạo lí dân tộc truyền thống, nên nó lớn và đậm tính nhân văn: "Tôi buộc lòng tôi với mọi người", "Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình", và nửa thế kỉ sau, mái đầu đã bạc trắng thời gian, trong ông vẫn sáng một niềm yêu thương ấy:

          Mùa vui, từ hạt giống gieo
Trái tim dành trọn tình yêu cho người
                                        (Ngày và đêm)

Có thể nói, với Tố Hữu, tình yêu cho mọi người và cho Tổ quốc là gốc rễ, là nguồn mạch tươi thắm làm nên cái hay, vẻ đẹp và sức lay động hồn người sâu bền của thơ ông. Nó làm cho giọng thơ tráng ca của ông nhiều lúc chùng xuống, mềm mại, sâu lắng và làm cho giọng thơ trữ tình riêng tư của ông trở nên có tầm vóc và bay bổng hơn. Sự hoà quyện, đan xen nhuần nhị giữa hai giọng thơ này quán xuyến trong mọi bài thơ và tạo nên độ lớn, độ sâu của điệu tâm hồn, điệu thơ riêng của Tố Hữu. Điều đó khiến cho thơ ông có sức thanh lọc và nâng đỡ tâm hồn con người. Cũng giống như Tố Hữu từng nói về tình yêu với Bác Hồ kính yêu đã làm cho con người lớn lên, đẹp lên: "Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn", tình yêu trong thơ Tố Hữu cũng làm nên sức mạnh sâu lắng của thơ ông, những câu thơ tự nó cứ thấm dần vào lòng ta từ lúc nào không biết và ngân vang lên lấp lánh:

Có thể nào quên?
Hỡi miền sâu thẳm
Của lòng ta!
Hỡi ngày xanh thắm
Nắng quê hương rười rượi đường dừa
Ngọt tiếng hò đưa những chuyến đò xưa...
                                        (Có thể nào yên?)

Tuy thường viết về các chủ đề xã hội - chính trị, nhưng các bài thơ của Tố Hữu đều ẩn chứa một mạch ngầm tình cảm đằm sâu, miên man bên trong của tác giả, đó chính là "sự im lặng giữa các từ, nếu người ta lắng nghe cái im lặng đó thì sẽ thấy có những tiếng dội rất đa dạng và tinh tế", đó cũng là "làm cho người ta không còn cảm thấy câu thơ, chỉ còn cảm thấy tình người". Mà tình người thì luôn thấm đẫm trong thơ Tố Hữu. Ví như khi ông khóc Bác Hồ:

Bác đã đi rồi sao, Bác ơi!
Mùa thu đang đẹp, nắng xanh trời
... Con lại lần theo lối sỏi quen
Đến bên thang gác, đứng nhìn lên
 
Chuông ôi chuông nhỏ còn reo nữa?
Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn!
                                                  (Bác ơi!)

Và khi ông ngậm ngùi Gửi theo anh Xuân Diệu:

Một tiếng thơ rơi, ngàn lệ thấm
Vắng Anh, người bớt ấm bao nhiêu!

Hoặc khi ông tưởng nhớ Chế Lan Viên:

Thương Anh, biết mấy là thương
Một đời thơ những vấn vương lẽ đời...
Mất còn, thôi thế, Chế ơi!
Tĩnh Viên mà động lòng người nghìn năm.

Thì ta đâu còn thấy hình hài câu thơ nữa, mà chỉ thấy có tấm lòng nhà thơ trong đó mà thôi! Giáo sư Hà Minh Đức có nhận định rất tinh tế và xác đáng: "Chất trữ tình và cảm xúc về cái đẹp trong thơ Tố Hữu được tạo thành mối cảm hứng đồng hành với tư tưởng chính trị. Từ dòng thơ đầu cho đến hôm nay, đặc điểm ấy vẫn nổi lên rất trội trong thơ Tố Hữu, làm nên chất thắm tươi, thiết tha và mềm mại của hồn thơ và giọng điệu thơ, Tố Hữu nhạy cảm phát hiện ra cái đẹp ở những sự kiện chính trị lớn của dân tộc, ở người anh hùng và đưa lên ngôi cùng với cái đẹp"(1).
(1) Hà Minh Đức, Một tài năng thơ ca thuộc về nhân dân và dân tộc, lời giới thiệu sách Tố Hữu - Thơ, NXB Giáo dục, H., 1995.

Có nghĩa là cái gốc thơ Tố Hữu là lòng yêu con người, yêu cái đẹp của cuộc sống đã làm rạng rỡ thêm cho cái lý tưởng chính trị mà ông đem vào thơ, để nó "đi" rất ngọt vào tâm hồn con người. Điều đó cắt nghĩa rõ vì sao thơ Tố Hữu có cả hai thứ giọng, vừa hùng tráng - hào sảng lại vừa vô cùng dịu dàng, thiết tha. Thơ ông không có bài nào chỉ toàn mang hơi hướng anh hùng ca hoặc toàn mang dáng vẻ dịu buồn riêng tư, mà luôn có cả hai trong đó. Bởi hồn thơ ông là thế, không bao giờ có sự tách bạch rõ ràng hai thứ tình cảm ấy trong ông. Tố Hữu luôn biết cách thể hiện một cách nhuần nhị chất anh hùng ca qua chất trữ tình cá nhân của nhà thơ. Ở ông có sự kết hợp kì lạ, hiếm hoi giữa sự kiên định một lí tưởng sống đẹp, một lòng quả cảm, nhiệt tình chiến đấu, với một trái tim thật dịu êm, 
tràn đầy một tình yêu nồng nàn và bao dung, để luôn nhạy cảm, run rẩy với từng nỗi đau, từng vẻ đẹp nhỏ bé, đơn sơ nhất của con người và cuộc đời. 

Thơ vốn là cái gì đó rất riêng tư, thanh khiết và mang dấu ấn cá nhân sâu thẳm, là "câu chuyện của những trái tim". Xưa nay các nhà thơ vẫn thường chỉ nói về mình và cho mình, hoặc có nói đến người, nói đến đất trời thì cuối cùng cũng chỉ là để tự biểu hiện bản thân mình mà thôi. Thơ như vậy là thơ thường tình, dù sao cũng dễ hay, dễ cảm, dễ làm hơn. Nhưng Tố Hữu khác thế. Ông không có ý định làm thơ chỉ cho mình, không dừng lại ở biểu hiện cái tôi cá nhân của riêng mình. Ông coi cái tôi - thi sĩ chỉ là cái cầu nối bắc qua để cho ông đi tới cái ta - muôn người. "Tôi làm thơ như tự nói lên một mình cái điều tôi muốn nói với nhiều người... Thơ là tiếng nói hồn nhiên nhất của con người trước cuộc đời, là tiếng nói của tâm hồn con người trước con người và trời đất".(2)
(2) Tố Hữu, Thơ là tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí, Sđd.

Nghĩa là Tố Hữu làm thơ cho người khác, cho mọi người, chứ không phải chỉ cho bản thân mình. Suốt đời, hầu như thơ ông chỉ lấy cảm hứng trong niềm cảm thương, nỗi xót xa cho sự đau khổ của nhân dân, trong việc ca ngợi những vẻ đẹp ẩn sâu trong họ và ca ngợi cuộc đấu tranh trường kì gian khổ vì nghĩa lớn của dân tộc mình. Những chủ đề lớn trong thơ Tố Hữu thuần tuý là những cảm hứng xã hội, cảm hứng lịch sử, mang tầm phổ quát của thời đại và đó là những khái niệm khá siêu hình, khô khan, thật khó mà thành thơ hay được. Vậy nhưng thơ Tố Hữu vẫn cứ làm rung động hết thảy mọi trái tim chúng ta suốt nửa thế kỉ nay, và chắc không chỉ chúng ta hôm nay. Điều kì lạ này chỉ có một tài năng lớn như Tố Hữu mới làm được. Rất nhiều những bài thơ, câu thơ mang tính chính trị của ông cứ tự nhiên "nhập tâm" vào lòng người, vào cuộc sống và ở lại dài lâu trong đó. Không phải do cấu tứ, từ ngữ, hình ảnh thơ ông có gì quá đặc sắc, điêu luyện, mà chỉ bởi ta cảm nhận được cái mạch ngầm cảm xúc chân tình, cảm nhận được nhịp đập trái tim nhà thơ phập phồng trong đó. Nó làm cho những câu thơ nhiều khi khô khan như khẩu hiệu của ông cũng trở nên rất có hồn:

Ngẩng đầu lên: trong sáng tuyệt trần
Tháng Tám mùa thu xanh thắm
Mây nhởn nhơ bay Hôm nay trời đẹp lắm!
Mây của ta, trời thắm của ta
Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà!
                                                      (Ta đi tới)

Trong thơ Tố Hữu, lí trí và tình cảm đều mãnh liệt nhưng vẫn hài hoà, lí trí không lấn át tình cảm và tình cảm không che mờ lí trí. Vì thế Tố Hữu vừa có "những dòng thơ lửa cháy", lại vẫn có "những dòng thơ tươi xanh" được bạn đọc rất yêu mến.

Như vậy, với Tố Hữu, đời, Đảng và thơ kết gắn hài hoà trên cái nền chung là tình yêu rộng lớn đối với con người, cách mạng và Tổ quốc. Thơ ông nói đến lí tưởng lớn, lẽ đời lớn bằng chính cái thiết tha, sâu thẳm của lòng ông thông qua một cách thức biểu hiện tinh diệu mà giản dị của nghệ thuật thơ, nên nó thật sự lay động lòng người. Đúng như nhận xét của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hạnh: "Thơ Tố Hữu chín cả trong tư tưởng và tình cảm. Anh nói chân lí lớn của đất nước và thời đại với sức nặng của tình cảm và nghĩa tình". Điều này thấm đượm rõ nét trên khắp các trang thơ của Tố Hữu. Ta thử bất chợt đọc một bài thơ tình cờ nào đó của ông xem, ví dụ bài thơ Chùa Hương làm năm 1992, một bài thơ hay, nhỏ xinh nhưng trĩu nặng tình đời. Trong đó hoà trộn ngổn ngang bao nỗi buồn - vui, riêng - chung thật khó mà tách bạch. Mà thực ra xưa nay ai có thể tách bạch rõ ràng muôn nỗi của lòng mình được - cái "miền sâu thẳm của lòng ta" ấy?

Vậy thì ta hãy cứ im lặng lắng nghe để cảm nhận tiếng vang vọng của nhà thơ dội lại trong lòng ta:

Và một hôm nào... sáng tháng Năm
Rừng mơ ríu rít. Bác về thăm.
Dấu hương Người quyện sương
Hương Tích Ngân tiếng chuông đồng, vọng tiếng Tâm...

Và để hiểu được vì sao tiếng thơ của Tố Hữu lại có thể "động lòng người nghìn năm" như thế, thì ngoài một tấm lòng "Một đời thơ những vấn vương lẽ đời..." của ông ra, thơ ông còn có gì nữa? Phải chăng vì hồn thơ sáng đẹp và chân cảm ấy đã được chưng cất, phong nhuỵ, ủ hương từ trong một phong cách nghệ thuật tinh diệu, độc đáo và đậm đà bản sắc dân tộc?

*

*       *


Nhà thơ Tố Hữu có lần tâm sự: "... Hình như lúc đầu, tôi không hề nghĩ đến chuyện làm thơ... Làm thơ... Tôi cũng rất ít băn khoăn về câu chuyện văn chương. Tôi nghĩ rằng: Nhân sinh quan, thế giới quan là chủ yếu. Hoạ chăng, tôi có thể nói rằng: dần dần càng về sau này, tôi càng nghĩ đến vấn đề: Viết thế nào cho mình đừng lặp lại mình...". Trong cả đời thơ của ông, Tố Hữu đã lao động bền bỉ, sáng tạo để "không tự lặp lại mình", bằng những tìm tòi giản dị mà độc đáo, ông đã để lại những dấu ấn đậm đà trong thơ Việt Nam hiện đại.

Dấu hiệu đầu tiên để nhận diện một phong cách thơ là ở giọng điệu. Giữa bao nhiêu giọng điệu thơ Việt Nam hiện đại, thơ Tố Hữu có giọng điệu riêng, độc đáo. Với quan niệm thơ là tiếng nói của tình cảm, của tấm lòng tìm đến những tấm lòng đồng điệu, Tố Hữu thường xuyên nghĩ đến "tiếng vang" của thơ, "sức cảm hoá" của thơ đối với công chúng, đối với cuộc đời. Ông là "thi sĩ của tình thương", và thơ ông là tiếng thơ "tìm gọi bạn", do vậy, rất tự nhiên, ông tìm chọn giọng tâm tình, chân thật, đằm thắm, thiết tha làm giọng chủ đạo cho thơ mình. Đọc thơ ông, người đọc luôn bị cuốn hút trong cái đằm thắm, da diết thường trực, tràn đầy từ sâu xa đáy lòng của nhà thơ. Giọng điệu tâm tình ấy nhất quán trong thơ Tố Hữu ngay từ thời Từ ấy. Ông luôn là người trong cuộc, cùng hỏi han, tâm sự, sẻ chia, giãi bày, cùng bàn luận "nhỏ to",... với công chúng. Có thể nói, nhờ giọng điệu này, giữa nhà thơ và công chúng, dường như không có sự cách biệt, chỉ có sự cảm thông của những người "đồng ý, đồng tình, đồng chí". Đối tượng tâm tình của ông là những người "bạn đời", "bạn lòng", "bạn đường", những người "anh em", "đồng bào". Và bởi vậy, ông đã có thể giãi bày cùng họ những gì "gan ruột" nhất. Thơ có thể đến với công chúng bằng con đường ngắn nhất "từ trái tim đến thẳng với trái tim". Những câu thơ Tố Hữu có sức vang ngân, thấm thía là nhờ thế.
Có thể nói, phần lớn các bài thơ trong cả đời thơ Tố Hữu được viết bằng giọng điệu này. Và như vậy, thật dễ hiểu vì sao Tố Hữu thường sử dụng và sử dụng đắc địa những thể thơ truyền thống (đặc biệt là thể thơ lục bát), những dạng "tiếng hát", "bài ca", lời ca mượt mà. Và trong thơ ông, những "tiếng gọi bạn": "đồng bào ơi, anh chị em ơi", "em ơi", "hỡi người bạn",... luôn vang vọng, da diết. Cái chủ thể "tôi", "ta" - luôn luôn là sự hoà đồng, dẫu được bọc trong cái vỏ ngôn từ "tôi" hay "ta".

Thơ Tố Hữu là tiếng hát của dân tộc, của thời đại. Giọng thơ trữ tình, anh hùng ca sẽ là giọng thơ phù hợp nhất để nhà thơ diễn đạt được chân thực và tương xứng những đối tượng thơ hùng vĩ: dân tộc, thời đại, lịch sử, những trận chiến thắng "Điện Biên chấn động địa cầu", "trận đại thắng mùa xuân lịch sử". Nhưng với Tố Hữu, chính cái gốc tình cảm khiến giọng hùng ca ấy, cái hùng tráng ấy cũng mang giọng vị đằm thắm, tâm tình và dáng vẻ dung dị.
Cũng chính nhờ cái gốc tình cảm ấy mà thơ ông ngay cả khi phải "nói lí" vẫn đậm đà tình cảm và vẫn nói được bằng giọng điệu tâm tình:

Đâu phải đường xanh. Đường qua máu chảy
Năm mươi năm máu đỏ thành hoa
Cuộc sinh nở nào đau đớn vậy?
Rất tự hào, mà xót tận trong da.
(Với Đảng mùa xuân)

Nguyễn Văn Hạnh đã rất có lí khi nhận xét: "Nhà thơ tập trung sự chú ý vào cấu tạo bên trong. Và ở đây nguyên tắc tổ chức tổng quát... là trật tự tự nhiên của tình cảm"(3). Những gì nhà thơ muốn diễn đạt, muốn biểu hiện, do vậy đều được "vùi sâu" trong tình cảm để chỉ còn đậm nổi lên giọng điệu tâm tình, chân chất - không khoa trương, ồn ào, gần với lời ca, điệu hát vốn là giọng chủ đạo trong thơ ông.
(3) Nguyễn Văn Hạnh, Thơ Tố Hữu, tiếng nói đồng ý, đồng tình, đồng chí, NXB Thuận Hoá, Huế, 1985, tr. 234.

Nhưng Tố Hữu là một tâm hồn thơ đa dạng. Nếu tình cảm yêu thương con người là cái gốc cho giọng điệu tâm tình, thì căm ghét kẻ thù, sự vùi dập, huỷ hoại những giá trị chân chính, nhân bản, lại tạo ra trong thơ ông một giọng điệu sắc và đanh thép. Nhưng, khác với Chế Lan Viên, giọng điệu "đanh thép" này của thơ ông cũng vẫn được nâng đỡ bằng tình cảm - từ phía tình cảm yêu thương để mà căm ghét. Nó vẫn mang nét vẻ riêng, cái lõi của những câu thơ ấy là tình yêu thương. Thơ do vậy, có sức mạnh đặc biệt.
Ở những tập thơ sau, từ Ra trận, Máu và hoa, và đặc biệt Một tiếng đờn, giọng trăn trở, day dứt, suy tư đậm dần trong thơ Tố Hữu. Những câu hỏi: "Vì sao?", "Có thể nào yên?", "Có thể nào quên?", "Có thể nào nguôi?", "Có thể nào khuây?", "Ôi đâu phải?" đặt ra day dứt, cháy bỏng, khoan sâu vào tim óc mỗi người. Giọng điệu này là hiệu quả tất yếu của sự nung nấu, chín chắn, thâm trầm, điềm tĩnh của tâm hồn nhà thơ trước những sóng gió của số phận
dân tộc và đặc biệt những diễn biến phức tạp trong cục diện đất nước và quốc tế có nhiều biến động. Trước một "Hiện thực bộn bề nhiều mặt, phải trái, tốt xấu nhiều khi lẫn lộn, lòng người lắm lúc chao đảo,... Bên cạnh niềm vui, có bao nhiêu nỗi buồn"(4):

Mới bình minh đó, đã hoàng hôn
Đang nụ cười tươi, bỗng lệ tuôn
Đời thường sớm nắng chiều mưa vậy
Khuấy động lòng ta biết mấy buồn!
                                   (Một tiếng đờn)
(4) Tố Hữu, 60 năm cuộc đời sáng tạo thi ca (Trịnh Bá Đĩnh ghi), Tạp chí Văn học, số 10, 1997, tr. 4.
 
Sự bổ sung giọng điệu này cũng là tất yếu. Nó ghi nhận bước phát triển mới trong giọng điệu thơ Tố Hữu, góp phần tạo nên một giọng điệu đa thanh, phù hợp với tâm hồn nhạy cảm và đa dạng của thi sĩ. Và, trước hết, biểu hiện của một tài năng thơ, một phong cách thơ lớn và đa dạng...

*

*       *

Một đặc điểm nổi bật trong thơ Tố Hữu là sự kết hợp sáng tạo giữa tính dân tộc và tính hiện đại. Cả đời thơ của ông, Tố Hữu đã lấy dân tộc làm nền tảng cho thơ mình. Ông tiếp thu truyền thống thơ ca dân gian, cổ điển của dân tộc, một sự tiếp nhận sâu và đa diện, tiếp nhận một cách sáng tạo, đầy bản lĩnh. Ông tiếp thu phần hồn; đón lấy cái hương, cái "nhuỵ" của nó, đúng như Nguyễn Đình Thi đã nhận xét.
Phong vị dân gian do vậy đậm đà trong thơ ông, đặc biệt trong nhiều bài thơ đặc sắc: Việt Bắc, Bầm ơi, Ba mươi năm đời ta có Đảng, Nước non ngàn dặm, trong những bài thơ về Bác, về quê mẹ, về mẹ, về miền Nam, về đất nước,... Những câu thơ còn được ủ chặt giữa hương vị dân gian rất phổ biến trong thơ Tố Hữu. Chính nó là sợi dây bền chắc, kết bện thơ ông với truyền thống thơ ca dân tộc và góp phần cơ bản tạo nên sức hấp dẫn, sức cảm hoá, sức nặng, sức bền của thơ ông trong lòng nhiều thế hệ độc giả.
Điều đáng nói hơn ở đây là Tố Hữu đã tiếp thu, triệt để khai thác, sử dụng và phát triển một cách sáng tạo những tinh hoa ấy của thơ ca truyền thống, để 
góp phần diễn tả một cách sinh động những tư tưởng, tình cảm mới của thời đại, chính sự tiếp nhận sáng tạo ấy của nhà thơ đã mang lại dáng vẻ hiện đại mới cho thơ ca truyền thống, "... làm cho cái hồn dân tộc nhập vào với cái hồn thời đại", "Tố Hữu đã giữ được hiện đại ngay trong hình thức biểu hiện tưởng là cổ điển nhất" (Lê Đình Kỵ). Những sự kiện lớn, trọng đại của lịch sử, của dân tộc, những sự việc, cảm xúc rất mới đã vào thơ ông tự nhiên, không cộm, không chút gò gượng,... là nhờ vậy.
Và thơ Tố Hữu cũng thật dân tộc - hiện đại ở dạng những câu thơ này:
Gà gáy sáng. Thơ ơi, mang cánh lửa Hãy bay đi. Con chim kêu trước cửa Thêm một ngày xuân đến. Bình minh
Kết hợp dân tộc - hiện đại đến độ nhuần nhuỵ, đầy sáng tạo như vậy là sáng tạo của những thành tựu nghệ thuật cao của người nghệ sĩ có tâm hồn và bản lĩnh lớn: đó là thành công của Tố Hữu - điều mà các nhà thơ cùng thế hệ của ông không mấy ai đạt tới nổi. Ta hiểu vì sao thơ Tố Hữu vừa có sức thấm sâu, vừa có sức bay xa...

*

*       *

Đọc thơ Tố Hữu, nhà thơ Chế Lan Viên nhận xét "Thơ là đi giữa nhạc và ý. Rơi vào cái vực ý, thì thơ sẽ sâu nhưng rất dễ khô khan. Rơi vào cái vực nhạc thì thơ dễ làm đắm say người, nhưng cũng dễ nông cạn. Tố Hữu đã giữ được thế quân bình giữa hai khu vực thu hút ấy. Thơ của anh vừa ru người trong nhạc, vừa thức người bằng ý".
Thơ Tố Hữu giàu nhạc điệu và quả là có sức "ru người trong nhạc", nhưng nhạc thơ Tố Hữu bao giờ cũng gắn liền với ý thơ, hoà quyện trong ý thơ và bởi thế thơ Tố Hữu sâu mà không trúc trắc, khô khan, say đắm lòng người mà không nông cạn, hời hợt. Ngay cả ở những đoạn thơ giàu nhạc điệu nhất, khi "nhạc thơ quyện lấy lòng ta ngay khi ta chưa kịp nhận rõ ý thơ" (Hoài Thanh) thì người đọc vẫn thấy ở đấy sự hài hoà: Nhạc không lấn lướt ý và ý không níu kéo nhạc "trong sóng nhạc cuồn cuộn, những ý nổi lên như đẩy nhạc đi, như giữ nhạc lại. Và chính là cái hơi nhạc đã thức dậy rồi lại phủ lên những ý". Là nhà thơ của cuộc đời, sống giữa lòng đời "Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực",
 
Tố Hữu luôn "Lắng nghe cuộc sống gọi từng giờ". Ông lắng nghe từng "tiếng đời lăn náo nức", lắng nghe... từng "viên đá lát", từng "đôi giày nhỏ",... và bởi vậy, nhạc điệu trong thơ ông là nhạc điệu của cuộc sống - hồn nhiên và náo nức - được lắng lọc qua một tâm hồn trong trẻo, tinh tế, dễ rung động, để thành cái nhạc điệu bên trong. Nhạc điệu tâm hồn nhà thơ ngọt ngào mà sâu lắng "sau âm thanh là có cả tâm hồn". Xuân Diệu có lần đã nhận xét: "Đọc thơ Tố Hữu người ta cảm thấy một dấu hiệu riêng như nét mặt của những bài thơ, làm cho thơ Tố Hữu không thể lẫn được thơ người khác, cảm thấy một thứ nhạc tâm tình riêng bàng bạc thấm lấy các câu thơ nhiều khi thành một thứ "Thi tại ngôn ngoại" của Tố Hữu. Cái nền nhạc đặc biệt đó theo ý tôi, là lòng thương mến" - chính cái nền nhạc đặc biệt ấy tạo sức hấp dẫn đặc biệt cho thơ Tố Hữu, tạo nên sức vang ngân của thơ ông. Đọc thơ ông người ta không còn cảm thấy "câu thơ" mà chỉ còn cảm thấy "tình người", thấy nó như là "tiếng ca vang từ trong lòng mình" là bởi thế.
Nói đến nhạc điệu trong thơ không thể không nói tới nhịp điệu nghệ thuật tổ chức âm điệu tiết tấu thơ. Nó chính là cái lõi, cái cốt của nhạc điệu. Phù hợp với nền nhạc tâm tình đặc sắc của Tố Hữu là một nhịp điệu thơ riêng, độc đáo. Trong thơ ông, nhịp điệu không gò gượng mà biến hoá tinh tế theo mạch tâm tình, góp phần biểu hiện tâm tình một cách tài tình, uyển chuyển. Dòng thơ do vậy có thể dài, ngắn; nhịp thơ được ngắt táo bạo, luân chuyển linh hoạt trên từng bài thơ, có khi từng đoạn, từng câu. Việc phối hợp nhịp điệu linh hoạt: khi dồn dập, trùng điệp, khi chậm rãi, khoan thai và cùng với nó, việc phối hợp âm thanh hài hoà đã tạo hiệu quả nghệ thuật cao cho thơ Tố Hữu.
Nhưng trước hết, để tạo được chất nhạc cho thơ, phải có được nguồn ngôn ngữ giàu tính nhạc. Tố Hữu là nghệ sĩ tài năng trong sự chọn lọc ngôn từ. Ông đã đạt tới một sự chọn lọc ngôn ngữ nghệ thuật thơ ca "với một sự chính xác nghiệt ngã nhất" (Gorky). Tiếng Việt rất phong phú về ngữ âm và dồi dào tinh tế về âm thanh. Tố Hữu "là một nhà thơ đã vận dụng âm điệu và âm hưởng của tiếng Việt một cách hết sức tài tình" (Đặng Thai Mai). Trở lại thơ Tố Hữu, có thể thấy, ông đã sử dụng nhiều, sử dụng linh hoạt và chuẩn xác những từ tượng thanh có tác dụng gợi tả những âm thanh phong phú và xao động: khi xa vắng, man mác, lúc rộn ràng, náo nức - góp phần làm tăng nhạc
 
điệu cho thơ. Sáng tạo tài năng nhất của ông, ta thường gặp ở những hoà phối âm thanh, nhịp điệu tinh tế và độc đáo đến độ hoàn hảo:

     Nỗi niềm chi rứa Huế ơi!
Mà mưa xối xả trắng trời Thừa Thiên.

Tiếp thu truyền thống thơ ca dân gian và cổ điển, thơ Tố Hữu cũng sử dụng rất nhiều từ lấp láy với những biện pháp đa dạng và sáng tạo. Hầu như ở những mức độ khác nhau, bài thơ nào Tố Hữu cũng sử dụng từ lấp láy hoặc láy vần, láy nguyên âm, láy phụ âm đầu,... Việc sử dụng từ lấp láy đã trở thành một đặc điểm nghệ thuật của thơ Tố Hữu, tạo nên những thành công độc đáo cho thơ ông, trước hết trên phương diện nhạc điệu. Quả là "tiếng nói Việt Nam luôn hát lên thành âm nhạc trong thơ Tố Hữu", cùng với nhịp điệu, với nền nhạc tâm tình phập phồng nhịp đập cuộc sống của nhà thơ tạo nên nhạc điệu đặc sắc "vừa ru", "vừa thức" người của thơ ông.

*

*       *

Luôn hoà quyện, gửi gắm tâm tình mình trong cảnh, mỗi hình ảnh trong thơ Tố Hữu, do vậy thường xốn xao tình. "Hình ảnh của thơ anh là để nói với lòng người". Ở sâu xa trong hình ảnh một cành lá quế là sâu xoáy một nỗi niềm:


     Nâng cành quế héo trên tay
Càng thương quế ngọt, quế cay cùng người!
                                        (Nước non ngàn dặm)


"Sở trường của thơ anh là lối tạo hình xúc động này".
Tố Hữu thường quan tâm đến cái "chân", cái "thật" trong thơ. Theo ông: "Thơ hay càng trần trụi, chân chất càng gây cảm xúc sâu xa trong lòng người đọc". Với quan niệm ấy, ông không cầu kì, không chuộng hình ảnh lạ. Hình ảnh thơ ông là những hình ảnh hồn nhiên, hình ảnh thực của đời sống. Cái đích của thơ ông là biểu hiện cho được những rung động thực của lòng mình.

Góp phần không nhỏ tạo nên thành công, sức mạnh của thơ Tố Hữu là ở thế giới ngôn ngữ thơ. Về cơ bản, Tố Hữu không cố công tìm tòi ngôn ngữ mới mà dồn sức cho việc tu từ, sử dụng đắc địa vốn từ ngữ vốn đã rất phong phú của đời sống, của thơ ca dân gian, cổ điển,... của dân tộc. Vốn sở trường về lời ăn, tiếng nói của dân tộc, thơ Tố Hữu thường sử dụng rất phổ biến lối ví von. Và bởi vậy trong thơ ông chữ "như" hoặc một khái niệm so sánh ngầm "như" rất phổ biến: "con người như dãy Trường Sơn", "như con sông nhỏ ngày đêm ấy", "Bác sống như trời đất của ta...". Với lối ví von, so sánh này, thơ Tố Hữu có thể làm cụ thể hoá một đối tượng, một khái niệm trừu tượng, nhưng thông thường hơn thơ ông nghiêng về xu hướng làm lớn lên, "nâng cao hơn đối tượng thể hiện. Ví von trong thơ Tố Hữu do vậy có "tính trừu tượng hơn, khái quát hơn so với ca dao" (Trần Đình Sử).
Tương phản cũng là thủ pháp nghệ thuật được sử dụng nhiều trong thơ Tố Hữu, nhờ phép tương phản, ý thơ nổi rõ và thường gây ấn tượng mạnh cho người đọc. Đây là thủ pháp nghệ thuật không mới mẻ, độc đáo. Cái riêng của Tố Hữu là sự tương phản nằm ngay trong dòng mạch tự nhiên của tư tưởng và cảm xúc. Nó dung dị, tự nhiên nhưng vẫn tạo cảm giác mạnh cho người đọc.

Tố Hữu luôn chú tâm tới "tiếng vang" của con chữ, "tiếng vang của cả khoảng cách giữa những chữ, những dòng", "tiếng vang dội rất đa dạng và tinh tế". Để có được tiếng vang ấy, phải có được sự cộng hưởng của nhiều yếu tố. Trùng điệp là thủ pháp hữu hiệu để tạo được tiếng vang, tạo được sự cộng hưởng ấy từ những yếu tố cá biệt. Điệp âm, điệp vần, điệp từ, điệp nhóm từ, điệp câu,... Có thể nói, những hình thức trùng điệp đó được sử dụng nhiều và thành công. Và một khi được kết hợp với những yếu tố khác: sự hoà phối của âm thanh, sự hoà phối của nhịp điệu, thì thơ Tố Hữu trở nên có sức diễn tả độc đáo.
Thường trực nhất trong thơ Tố Hữu vẫn là tài năng, là công phu lựa chọn chữ, lựa chọn ngôn từ của đời sống, "đặt" nó đúng chỗ để phát huy đến tận cùng hiệu quả ngữ nghĩa, ngữ âm của nó:

     Bời bời, cỏ lút đồng hoang
Chim kêu cành cụt, chang chang nắng cồn

Những chữ "bời bời", "lút", "hoang", "cành cụt",... đầy khả năng biểu cảm và biểu đạt một cảnh hoang vắng.
Thế giới ngôn từ của thơ Tố Hữu thật đa dạng, phong phú. Chỉ lẩy ra vài đặc điểm nổi bật như trên chắc chắn còn nhiều phiến diện. Nhưng chỉ như vậy thôi, cũng đã có thể khẳng định những đóng góp đáng quý của thơ ông trên xu hướng tìm tòi bản sắc dân tộc hiện đại của ngôn ngữ thơ Việt.

*

*       *

Sáu mươi năm một cuộc đời tranh đấu và sáng tạo thơ ca, nhà thơ Tố Hữu hẳn không thể không tự hào về những gì ông đã cống hiến cho đất nước và cho nền văn học cách mạng Việt Nam. "Tố Hữu là nhà thơ thời sự nhất nhưng lại sáng tạo được nhiều giá trị bền vững với thời gian, nhà thơ luôn hoà nhập với cuộc đời chung, lại khẳng định được bản sắc riêng độc đáo" (Hà Minh Đức).

Trong bài thơ Chào xuân 67, Tố Hữu viết:
Nếu được làm hạt giống để mùa sau Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa Vui gì hơn làm người lính đi đầu Trong đêm tối, tim ta làm ngọn lửa!
Và phải chăng là một sự tình cờ hay một lẽ dĩ nhiên, mà Tố Hữu lại là một trong muôn người được lịch sử lựa chọn để gánh vác sứ mệnh cao cả: làm một nhà thơ - chiến sĩ, đem đời mình và thơ mình "Đốt lửa lên cho sáng lối đời", để ghi lại và để hát lên bản hùng ca bi tráng của thời đại và của dân tộc Việt Nam. Và Tố Hữu đã làm trọn vẹn, xuất sắc sứ mệnh khó khăn và vẻ vang đó. Ông đã là một "người đốt lửa" và "người gieo hạt" trên cánh đồng thơ ca cách mạng của dân tộc mình, với một lòng yêu và lòng tin không bao giờ vơi cạn.
Và nói như nhà thơ Chế Lan Viên, khi lịch sử có cuộc bàn giao thế kỉ, hẳn là: "Tố Hữu sẽ là nhà thơ đầu tiên, là một trong rất hiếm hoi các nhà thơ Việt Nam hiện đại có đủ sức bay cao, xa, vượt qua thế kỷ này để đến được thế kỉ khác" - thế kỉ của tương lai.

Hà Nội, lập thu Mậu Dần
(Tố Hữu – Về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, H., 2007)